Monday 15 October 2018

Họ Cheo cheo – Wikipedia tiếng Việt


Mười loài cheo cheo tạo thành một họ động vật có danh pháp khoa học là Tragulidae tức họ Cheo cheo. Cheo cheo là các động vật nhỏ, nhút nhát, hiện nay chỉ còn tìm thấy trong các cánh rừng nhiệt đới của châu Phi, Ấn Độ và Đông Nam Á. Chúng cũng là các thành viên duy nhất còn tồn tại của cận bộ Tragulina. Sự sinh tồn của các loài này phụ thuộc vào sự suy trì môi trường sinh sống ngày càng bị thu hẹp của chúng cũng như phụ thuộc vào sự ngăn cấm việc săn bắn và tiêu thụ thịt của chúng.


Họ này từng phổ biến và thành công từ thế Oligocen (khoảng 34 triệu năm trước) tới thế Miocen (khoảng 5 triệu năm trước), nhưng đã gần như không thay đổi theo thời gian và là một ví dụ về dạng động vật nhai lại nguyên thủy. Cheo cheo có dạ dày bốn ngăn để lên men các thức ăn từ thực vật khó tiêu hóa, nhưng dạ lá sách (túi thứ ba) kém phát triển. Giống như các động vật nhai lại khác, chúng không có các răng cửa trên và chỉ đẻ một con chứ không đẻ con thành bầy như lợn. Công thức bộ răng của cheo cheo là như của một số loài hươu nai nhỏ:


Tuy nhiên, ở các khía cạnh khác thì cheo cheo có các đặc trưng nguyên thủy, gần với động vật không nhai lại trong bộ guốc chẵn là các loài lợn. Chúng không có sừng hay gạc, mà cả hai giới đều có các răng nanh trên và to[1]. Các răng nanh của con đực dễ thấy và sắc nhọn, chĩa thẳng về cả hai bên của hàm dưới. Cheo cheo có các chân ngắn, mảnh dẻ làm cho chúng thiếu sự nhanh nhẹn nhưng hỗ trợ để duy trì một cơ thể nhỏ giúp chúng chạy tốt trong các tán lá rậm rạp tại môi trường sống của chúng. Các đặc trưng giống như lợn khác còn bao gồm sự hiện diện của 4 ngón trên mỗi chân, không có các tuyến xạ tại mặt, các răng tiền hàm với chỏm sắc cũng như hình thức trong hành vi tình dục và giao phối của chúng[2].

Thành viên lớn nhất của họ này là cheo cheo nước ở châu Phi, dài khoảng 80 cm và cân nặng khoảng 10 kg. Nó cũng được coi là giống như lợn nhất và nguyên thủy nhất trong số các loài cheo cheo. Các loài còn lại đều ưa thích các môi trường rừng núi đá. Cheo cheo Nam Dương ở Đông Nam Á là nhỏ nhất trong số các loài móng guốc, với con thuần thục chỉ dài khoảng 45 cm (18 inch) và cân nặng 2 kg (4,4 pao).


Theo truyền thống, chỉ 4 loài còn sinh tồn được công nhận thuộc họ Tragulidae[3]. Năm 2004, T. nigricansT. versicolor được tách ra khỏi T. napu, còn T. kanchilT. williamsoni cũng tách khỏi T. javanicus[4]. Năm 2005, M. indicaM. kathygre được tách khỏi M. meminna[5]. Với các thay đổi này thì hiện nay họ này được công nhận là chứa 10 loài còn sinh tồn:


Tranh vẽ về Dorcatherium.

Có 6 chi cheo cheo đã tuyệt chủng[6] gồm:



và có thể bao gồm[10][11]


Họ Hypertragulidae có quan hệ họ hàng rất gần với họ Tragulidae.


Cheo cheo có tên gọi trong tiếng Anh là chevrotain, nguồn gốc từ tiếng Pháp, nghĩa là "con dê nhỏ" hay mouse deer- tức hươu chuột, không nên nhầm với deer mouse tức chuột hươu, Peromyscus. Trong tiếng Telegu nó được gọi là jarini pandi, có nghĩa là con vật vừa là hươu vừa là chuột.

Loại ô tô Kancil do hãng xe Perodua, Malaysia sản xuất từ năm 1993 lấy theo tên gọi loài động vật này trong tiếng Mã Lai, do nó là loại xe ô tô rất nhỏ.



  1. ^ Hyemoschus aquaticus

  2. ^ Dubost G. (1984). Macdonald D., biên tập. The Encyclopedia of Mammals. New York: Facts on File. tr. 516–517. ISBN 0-87196-871-1. 

  3. ^ Nowak R. M. (chủ biên) (1999). Walker's Mammals of the World. Ấn bản lần 6. Nhà in Đại học Johns Hopkins.

  4. ^ Meijaard I., C. P. Groves (2004). A taxonomic revision of the Tragulus mouse-deer. Zoological Journal of the Linnean Society 140: 63-102.

  5. ^ Groves C., và E. Meijaard (2005). Intraspecific variation in Moschiola, the Indian Chevrotain. The Raffles Bulletin of Zoology. Supplement 12: 413-421

  6. ^ Farooq, U., Khan, M.A., Akhtar, M. and Khan, A.M. 2008. Lower dentition of Dorcatherium majus (Tragulidae, Mammalia) in the Lower and Middle Siwaliks (Miocene) of Pakistan. Tur. J. Zool., 32: 91-98. http://journals.tubitak.gov.tr/zoology/issues/zoo-08-32-1/zoo-32-1-14-0612-5.pdf

  7. ^ E. Thenius 1950. Über die Sichtung und Bearbeitung der jungtertiären Säugetierreste aus dem Hausruck und Kobernaußerwald (O.Ö.) in Verh. Geol. B.-A. 51/2, pp 56

  8. ^ Israel M. Sánchez; Victoria Quiralte; Jorge Morales; Martin Pickford (2010). “A new genus of tragulid ruminant from the early Miocene of Kenya” (PDF). Acta Palaeontologica Polonica 55 (2): 177–187. 

  9. ^ Métais, G., Chaimanee, Y., Jaeger, J.-J. & Ducrocq S. 2001. New remains of primitive ruminants from Thailand: evidence of the early evolution of the Ruminantia in Asia. Zoologica Scripta. 30, 231-248. http://www.thaiscience.info/Article%20for%20ThaiScience/Article/5/Ts-5%20new%20remains%20of%20primitive%20ruminants%20from%20thailand%20evidence%20of%20the%20early%20evolution%20of%20the%20ruminantia%20in%20asia.pdf

  10. ^ Terry A. Vaughan,James M. Ryan,Nicholas J. Czaplewski. Mammalogy (ấn bản 5). Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2012. 

  11. ^ An Error Occurred Setting Your User Cookie

  12. ^ Paleobiology Database: Krabitherium



No comments:

Post a Comment